Soạn Văn 10 Bài Tỏ Lòng Ngắn Nhất

     
*
Thư viện Lớp 1 Lớp 1 Lớp 2 Lớp 2 Lớp 3 Lớp 3 Lớp 4 Lớp 4 Lớp 5 Lớp 5 Lớp 6 Lớp 6 Lớp 7 Lớp 7 Lớp 8 Lớp 8 Lớp 9 Lớp 9 Lớp 10 Lớp 10 Lớp 11 Lớp 11 Lớp 12 Lớp 12 Lời bài hát Lời bài hát Tuyển sinh Đại học, Cao đẳng Tuyển sinh Đại học, Cao đẳng


Bạn đang xem: Soạn văn 10 bài tỏ lòng ngắn nhất

Soạn bài Tỏ lòng - ngắn nhất Soạn văn 10


Tải xuống 2 752 0

emtc2.edu.vn xin giới thiệu đến các quý thầy cô, các em học sinh đang trong quá trình ôn tập tài liệu Soạn văn lớp 10 bài: Tỏ lòng mới nhất, tài liệu bao gồm 2 trang, trả lời đầy đủ các câu hỏi lý thuyết chuẩn bị bài trong sách giáo khoa Ngữ văn 10, giúp các em học sinh có thêm tài liệu tham khảo trong quá trình ôn tập, củng cố kiến thức và chuẩn bị cho kì thi môn Văn sắp tới. Chúc các em học sinh ôn tập thật hiệu quả và đạt được kết quả như mong đợi.

Mời các quý thầy cô và các em học sinh cùng tham khảo và tải về chi tiết tài liệu dưới đây:

TỎ LÒNG

Bài giảng: Tỏ lòng

(Thuật hoài)PHẠM NGŨ LÃO

I. KIẾN THỨC CƠ BẢN1. Hào khí Đông AHào khí Đông A là hào khí đời Trần (chữ Đông và chữ A trong tiếng Hán ghép lại thànhchữ Trần). Cụm thuật ngữ này từ lâu đã được dùng để chỉ cái không khí oai hùng, hàosảng của thời Trần (thời kì mà chúng ta có những chiến công lừng lẫy khi cả ba lần đềuđánh tan sự xâm lược của giặc Nguyên- Mông).Hào khí Đông A là chỉ cái khí thế hừng hực của niềm vui chiến thắng, chỉ cái khát khaomang tính thời đại mà ở đó ai ai cũng muốn góp sức dựng xây hay dang tay bảo vệ cho sựvững bền mãi mãi của non sông đất nước mình.Hào khí Đông A từ xã hội đi vào thơ văn trở thành sự kết tinh cho những biểu hiện caođẹp của lòng yêu nước. Có không ít tác phẩm nổi tiếng mang hơi thở của Hào khí Đông A:Thuật hoài (Tỏ lòng) của Phạm Ngũ Lao, Tụng giá hoàn kinh sư (Phò giá về kinh) củaTrần Quang Khải, Hịch tướng sĩ văn của Trần Quốc Tuấn,…2. Tỏ lòng là một bài thơ ngắn nhưng lại mang đậm dấu ấn của cả một thời (dấu ấn về âmhưởng của hào khí Đông A). Bài thơ là một bức tranh kì vĩ, hoành tráng bởi vẻ đẹp củahình tượng người anh hùng vệ quốc hiên ngang, lẫm liệt với lí tưởng và nhân cách lớn lao.Bài thơ cũng là vẻ đẹp của thời đại với khí thế hào hùng mang tinh thần quyết chiến vàquyết thắng.II. RÈN KĨ NĂNG1. So sánh câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán với câu thơ dịch, ta thấy hai từ "múagiáo" chưa thể hiện được hết ý nghĩa của hai từ "hoành sóc". "Hoành sóc" là cầm ngangngọn giáo mà trấn giữ non sông. Từ ý nghĩa lẫn âm hưởng, từ "hoành sóc" đều tạo ra cảmgiác kì vĩ và lớn lao hơn.Trong câu thơ đầu này, con người xuất hiện trong bối cảnh không gian và thời gian đềurộng lớn. Không gian mở theo chiều rộng của núi sông và mở lên theo chiều cao của saoNgưu thăm thẳm. Thời gian không phải đo bằng ngày bằng tháng mà đo bằng năm, khôngphải mới một năm mà đã mấy năm rồi (cáp kỉ thu). Con người cầm cây trường giáo (cũngđo bằng chiều ngang của non sông), lại được đặt trong một không gian, thời gian như thếthì thật là kì vĩ. Con người hiên ngang ấy mang tầm vóc của con người vũ trụ, non sông.2. Câu thơ “Tam quân tì hổ khí thôn ngưu” có hai cách hiểu : Thứ nhất, ta có thể hiểu là“ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu”. Nhưng cũng có thể giải thích theo cách khác, với cáchhiểu là: Ba quân hùng mạnh khí thế át sao Ngưu.

Xem thêm: Hoọc Phí Đại Học Sài Gòn Về Phần Học Phí Sẽ Được Chia, Học Phí Đại Học Sài Gòn Mới Nhất


Xem thêm:


Có thể nói quân đội nhà Trần mạnh cảvề trí và lực, không những nó có được đầy đủ binh hùng tướng mạnh mà còn có những vịđại tướng quân trí dũng song toàn (như: Trần Quốc Tuấn, Trần Quang Khải, Phạm NgũLão, Trần Nhật Duật…). Vì thế thật không quá khoa trương khi nói: cái khí thế ấy đúng làđủ sức làm đổi thay trời đất.3. Tỏ lòng là bài thơ nói chí. Đó là cái chí của những bậc nam nhi trong thiên hạ. Chính vìthế, món "nợ công danh" mà nhà thơ nói đến ở đây vừa là khát vọng lập công, lập danh(mong để lại tiếng thơm, sự nghiệp cho đời) vừa có ý "chưa hoàn thành nghĩa vụ đối vớidân, với nước". Theo quan niệm lí tưởng của trang nam nhi thời phong kiến thì công danhđược coi là một món nợ đời phải trả. Trả xong nợ công danh mới hoàn thành nghĩa vụ vớiđời, với dân, với nước. Ở phần cuối của bài thơ, tác giả vẫn "thẹn" vì mình ch­a được nhưVũ Hầu Gia Cát Lượng, nghĩa là vẫn muốn lập công lập danh để giúp nước giúp đời.4. Trong câu thơ cuối, nỗi "thẹn" đã thể hiện vẻ đẹp nhân cách của người anh hùng. PhạmNgũ Lão "thẹn" vì chưa có được tài năng mưu lược như Vũ Hầu Gia Cát Lượng (KhổngMinh - đời Hán) để giúp dân cứu nước, thẹn vì trí và lực của mình thì có hạn mà nhiệmvụ khôi phục giang sơn, đất nước còn quá bộn bề. Nỗi thẹn của Phạm Ngũ Lão cũng lànhững day dứt của Nguyễn Trãi hay của Nguyễn Khuyến sau này. Đó là những nỗi thẹncó giá trị nhân cách - nỗi thẹn của những con người có trách nhiệm với đất nước, nonsông.5. Người xưa nói "Quốc gia lâm nguy, thất phu hữu trách". Câu nói ấy quả rất đúng vớitinh thần của bài thơ "Tỏ lòng". Đọc những dòng thơ hào hùng khí thế, ta có thể cảmnhận rât rõ vẻ đẹp sức vóc và ý chí của những trang nam nhi thời đại nhà Trần. Âmhưởng anh hùng ca của thời đại do những con người ấy tạo nên và cũng chính âm hưởngấy tôn lên vẻ đẹp anh hùng của họ. Họ đã từ bỏ lối sống tầm thường, ích kỉ, để sẵn sàngchiến đấu và hy sinh cho sự nghiệp cứu nước, cứu dân. Tinh thần và ý chí ngoan cườngcủa những con người ấy sẽ vẫn mãi là lí tưởng cho nghị lực và sự phấn đấu của tuổi trẻhôm nay và mai sau.