ĐẤT RỪNG PHƯƠNG NAM CHƯƠNG 1
Có lẽ từ hôm bước lên xóm chợ này, mình đã bắt đầu cuộc sống lưu lạc rồi chăng. Những đêm giật mình thức giấc nằm nghe tiếng gió rít thê lương từ các cánh đồng xa mông quạnh và lắng nghe tiếng nước chảy ào ào dưới chân cầu nước (Bậc thang bắc ra sông để giặt giũ hay lấy nước) bắc ra con kênh thẳng tắp chạy dài vô tận trước ngôi chợ này, tôi vẫn thường vơ vẩn nghĩ như vậy. Tôi lạc tới xóm chợ này, tính ra đã có hơn nửa tháng.Một buổi tối, đoàn thuyền vận tải quân lương của Ủy ban kháng chiến Nam Bộ đỗ lại đây. Anh học sinh trường côle người trong ban tiếp tế đã cho tôi theo thuyền từ Hậu Giang đến đây bảo tôi: "Chỉ ghé lại độ nửa giờ cho các chú lên chợ mua thức ăn. Có muốn lên bờ không?Tôi lắc đầu. Anh bèn vỗ vai tôi cười lớn: "Vậy thì tốt quá, ngồi lên mui ngó lên bờ chơi cũng được. Trông chừng đồ đạc em nhé!" Anh lần theo cây đòn dài bắc sang một chiếc thuyền khác, và lẹ làng như con sóc, co người trèo qua be mấy chiếc tam bản, mấy chiếc xuồng nhỏ của những người đi chợ đậu ken dọc theo bến rồi nhảy phóc lên bờ.- Đừng đi đâu nhé. Uống cà phê xong anh sẽ xuống cho chú mày cái bánh! - Anh xốc khẩu súng mô-de đeo bên hông, vẫy vẫy tôi và rướn hai chân, cố nói thật to để cho tôi nghe thấy.- Rồi! Nghe rồi... Anh cứ đi đi! - Tôi bắc tay lên mồm đáp lại.Tôi ngồi đong đưa hai chân trên mui chiếc thuyền chở gạo ngóng lên chợ. Đèn măng-sông trong các hiệu buôn, các tiệm ăn của người Hoa kiều thắp lên sáng rực. Chỗ khoảng sân rộng, những người đàn bà nông dân mặc quần áo bà ba đen, khăn rằn đen vắt chéo qua vai ngồi xếp từng dãy dài sau những chiếc cần xé to tướng, những chiếc thúng đựng đầy ắp không trông rõ và không biết đó là thứ gì mà họ mang ra chợ bán. Mỗi người bán hàng đều thắp một ngọn đèn con ở chỗ mình ngồi. Và những người đi chợ, cũng có nhiều người cầm theo trên tay một ngọn đèn. Đèn người mua, đèn người bán cứ như sao sa.Từ trong đám người ồn ào và những ánh lửa đèn luôn luôn cử động ở tít chỗ cuối chợ, bỗng nổi lên bốn đầu ngọn đuốc cháy đỏ rực cùng với tiếng trống, tiếng thanh la khua rung dồn dập.- Hát Sơn Đông, chúng mày ơi?- Lại coi con bé nhào vòng lửa đi!Mau lên, chúng mày ơi!
Bạn đang xem: đất rừng phương nam chương 1
Xem thêm: Giải Vở Bài Tập Toán Lớp 3 Bài 145 : Luyện Tập, Giải Vở Bài Tập Toán 3 Bài 145: Luyện Tập
Xem thêm:
Em bé lao qua vòng dao lần thứ nhất, rất dễ dàng. Em lại mím môi lao qua lần thứ hai. Đến lần thứ ba, thì một tiếng thét kinh hoàng của những người xem nổi lên chung quanh tai tôi. Em bé đã ngã bổ xuống bàn chân phải mắc vào một mũi dao. Người xem chạy ùa vào. Ông Khách già ôm ngang lưng con gỡ chiếc hài đen ra khỏi mũi dao. Một dòng máu đỏ từ trong vết thương bàn chân em bé tuôn ra như suối.- Không hề gì mà! Dán một lá thuốc cao, khỏi ngay thôi? - ông Khách vừa nói vừa rắc một ít thuốc cầm máu màu đen để hàn miệng vết thương, và trao đứa con gái ột bà xẩm vác đưa xuống chiếc thuyền đậu trong một con kênh gần đấy.Bọn trẻ nhỏ ùn ùn chen lấn chạy theo coi. Mặc dầu đám hát vẫn tiếp tục biểu diễn, nhưng tôi không còn lòng đã nào xem nữa. Tôi cũng chạy theo đám trẻ, lần xuống mé sông đứng ngó vào thuyền.Em bé ngồi tựa lưng vào mui, đôi mắt to đen láy nhìn xuống vết thương trên mu bàn chân đã được bó một lá thuốc cao. Không thấy máu chảy nữa. Nhưng bàn chân cứ run run, lâu lâu lại giật một cái, khiến em nhắm mắt lại. Bà xẩm cầm ngọn đèn soi vào chân con, tròng mắt đỏ hoe.- Con có đau lắm không, con?Em bé nhắm nghiền mắt, hai tay bóp chặt trên ống chân, lắc lắc đầu. Một giọt nước mắt người mẹ rơi xuống bàn chân nhỏ của đứa con đau. Em bé mở choàng mắt ra, hốt hoảng nhìn mẹ, như vừa bị một giọt nước sôi rơi trúng vào chân.- Ơ không có làm sao đâu, má à? Buốt buốt một tí thôi!Vừa nói, cô bé vừa quờ tay ôm ngang lưng mẹ và cố nhoẻn cười ẹ yên lòng. Nhưng sau đó một chốc, em lại nhắm mắt lại. Mấy giọt mồ hôi rịn rịn ra trên vầng trán nhỏ. Tôi biết chắc chắn rằng em bé đau lắm. Tôi không dám đứng nhìn nữa, bèn trở lên chợ.Bấy giờ đám hát cũng vừa tan. Tôi sực nhớ ra là mình đã di lâu quá. Tôi liền chạy vào quán cà-phê. Không thấy anh học sinh côle dâu. Tôi nhằm hướng đầu ngọn cây bàng khô, chạy một mạch về. Đoàn thuyền vận tải quân lương không còn chiếc nào đậu ở đó nữa. Tôi chạy dọc theo bến chợ một quãng, hi vọng họ vừa rời di, mình còn có thể đuổi theo kịp.Trời tối quá. Lửa đèn trên sông dần dần thưa thớt. Chợ cũng đã tan rồi. Tôi trèo lên một đống gạch, đứng ngóng theo làn nước lấp loáng ánh sao xuôi xuôi trên dòng kênh không biết chảy về đâu. Một người đàn bà quảy đôi thùng xuống bến lấy nước, đứng lại nhìn tôi hồi lâu rồi hỏi:- Có phải mày ở trong đoàn thuyền vận tải không?- Dạ phải! - Tôi vội đáp, bụng hơi mừng – Họ đi dâu rồi dì?- Trời ơi? Mày đi đâu mà họ tìm mày khắp cả chợ? Họ đi rồi. Đi từ tám hoánh nào rồi! Nhổ sào từ hồi nước mới ròng. Và người đàn bà chép miệng: - Chà, chừng như họ được lệnh đi ngay hay sao ấy. Gấp lắm thì phải!- Dì có nghe họ nói đi đâu không - tôi hỏi lại. - Chuyện quân sự mà, biết sao lọt! Thế mày cũng không biết à? Họ không nói với mày à?- Không, dì ạ!- Mày có ba má, anh em gì trên thuyền không?- Không. Cháu đi quá giang thôi.Người đàn bà chành môi ra dài giọng:- Thảo nào?... Người ta có việc của người ta chứ. Ai bảo cứ ham chơi, đi những đâu?Người đàn bà không nói gì nữa, lẳng lặng xuống sông gánh nước lên chợ. Tự nhiên tôi thấy trong lòng mình rưng muốn khóc...Ban ngày tôi thẩn tha đi dọc theo bến, mong có gặp người nào quen trong đoàn thuyền vận tải quân lương trở lại đây không. Ban đêm tôi, tôi vào ngủ trong chợ, chui dưới gầm một thớt bán thịt lợn của người Hoa kiều.Những người đàn bà trong chợ gọi tôi là thằng bé tản cư. Nghe đâu hồi tháng trước, chợ này chỉ họp buổi sáng. Hơn tháng nay, chợ nhóm suốt ngày, có đêm mãi chín mười giờ khuya mới tan. Người tản cư ở các vùng trên đổ xuống ùn ùn như nước. Mặt nước dòng kênh không mấy lúc ngớt tiếng khua động mái chèo. Cái chợ con nằm trên ngã ba kênh của xứ làng quê hẻo lánh này trở nên đông vui nhộn nhịp như một trấn nhỏ. Người từ Sài Gòn chạy xuống tới đây cũng có. Người vùng Tiền Giang, Hậu Giang cũng có. Nhiều con mụ đàn bà mặc áo lụa trắng rô-dê (tiếng pháp có nghĩa là thêu), che dù đầm, núng na núng nính rén bước đi lên chợ, mắt cứ ngó xuống chân dép xăng-đan, sợ bùn đất vấy gấu quần. Tiền bạc đựng nứt ví, nhưng mua gì cũng chê ỏng chê eo, trả giá rẻ mạt. Tôi chỉ nghe họ than phiền với nhau rằng: Cánh mình dở quá, không chặn nổi Tây", rằng "chạy vào đây không có nước đá uống, không có nước ngọt tắm". Thấy tôi lảng vảng đến gần chỗ thuyền họ, họ nhìn chòng chọc vào tôi, bộ như muốn ăn thịt: ê đi đi, thằng nhỏ. Mò mẫm toan an cắp hả?" Tôi ức đến muốn khóc. Có ai quen, gặp tôi bây giờ cũng không nhận ra tôi nữa đâu. Ngồi bó gối trên cầu nhìn xuống nước, chính tôi cũng khó nhận ra mình trong cái hình thù quái dị này. Tóc tôi mọc dài gần phủ gáy, hai quầng mắt hõm sâu, cổ gầy nhom như cổ cò ma. Chiếc áo vét tông bằng ka ki trắng của anh học sinh côle cho tôi, giờ đây đã biến thành màu cháo lòng, vạt áo phủ xuống tận gối, cứ kêu loạt xoạt theo mỗi bước đi. Còn chiếc quần đùi bằng vải len của tôi thì bạc phếch ra, hai ống rách te tua như bị cá chốt rỉa.Ai nhờ việc gì, tôi cũng giúp. Mấy thím bán cá nhờ tôi khiêng thúng mủng, xách nước cho họ thay nước rộng cá.- Em bé? Vác cho qua (tiếng xưng tôi thân mật của người có tuổi) bó mía đi!- Em bé? Đội thúng tôm lên chợ giúp dì đi.- Nhỏ? Nhỏ! Chạy xuống mé kênh cắm lại cây sào của dì sắp trôi kia!Kẻ cho tôi nắm xôi, người cho tôi gói bắp. Không ai biết tôi từ đâu trôi dạt tới.Ngày nào tôi cũng tạt qua trước ngôi quán rượu một lần. Biết đâu bác tài công già hôm nọ chẳng qua ngang mà ghé lại đây?Những ngày đầu mùa mưa năm 1946 cứ ì ạch nặng nề lê đi từng bước khó khăn như ngươi đàn bà sắp ở cữ cứ trở dạ mãi mà vẫn chưa đẻ được. Ở cái vùng nước mặn miền tây Nam bộ này, người ta mong mưa như bọn trẻ con chúng tôi mong mẹ về chợ. Mưa có nước ngọt uống, có nước cầy bừa, nhưng điều quan trọng nhất trước mắt, là mưa có thể làm chậm bước của địch trong các cuộc tiến công, gây trở ngại cho chúng trên các nẻo đường hành quân vì trơn tuột, sình lầy.Trời càng sắp mưa thì càng oi bức khó chịu, ban ngày mặt trời đổ nắng chang chang, nóng như giội lửa. Chỉ khi đêm đến mới có đôi chút gió lao xao từ vùng vịnh Thái Lan thổi tới. Thường thường, đêm nào người trong chợ cũng xách chiếu ra ngồi dọc bờ kênh hóng mát, coi thuyền tản cư và thuyền chở Cộng hòa vệ binh (tổ chức chính quy của quân đội sau ngày nam bộ cướp chính quyền một trong bốn sư đoàn dân quân cách mạng Nam Bộ) từ mạn trên trẩy xuống. Quán rượu của dì Tư Béo là nơi tụ họp của những người thức khuya nhất, có khi đến một hai giờ sáng hãy còn đỏ đèn và ran tiếng nói cười.